Bài văn hay lớp 12: Phân tích tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân

Vợ nhặt

Kim Lân là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng với cách viết chân chất và mộc mạc cũng như những hình ảnh nhân vật đặc trưng của làng quê. Văn học của Kim Lân gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc bởi những cảm xúc bình dị, rất đời thường nhưng đầy ý nghĩa. Một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, “Vợ nhặt” tái hiện thành công xã hội nghèo khổ và bế tắc của người nông dân. Kim Lân đã mô tả thành công cuộc sống bần cùng giai đoạn đó bằng bút pháp tả thực.

Vợ nhặt
Vợ nhặt của Kim Lân

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân được viết trong thời kỳ quốc gia đang gặp nạn đói năm 1945 và cuộc sống bần cùng của người dân, cũng như những người chết nham nhảm, “người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba Mùi xác người và rác rưởi làm ô nhiễm không khí. Khu vực lân cận của họ đã mô tả đời sống thê thảm và tình trạng đói nghèo. Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đưa người đọc vào cuộc sống của những thứ tồi tệ nhất. Chi tiết và tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc sống của từng nhân vật như “vợ nhặt”.

Bạn Đang Xem: Bài văn hay lớp 12: Phân tích tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân

Tác phẩm có một nhan đề hấp dẫn nhưng lạ lùng, thu hút người đọc. Theo Kim Lân, “nhặt” có nghĩa là lựa chọn ngẫu nhiên. Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới xin tử tế. Thông thường, không ai nhặt được vợ. Thân phận con người rẻ rúng hơn bao giờ hết trong tình huống này, Kim Lân đã tạo ra một câu chuyện bất ngờ nhưng cũng bi hài và nghịch cảnh. Anh cu Tràng lại nhặt được vợ trong thời điểm đói kém, khi thân mình chưa biết có lo nổi cho mình hay không. Một anh chàng xấu trai, nghèo khổ có thể lấy vợ chỉ bằng vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Ngoài ra, đó có thể là kết quả của tình trạng đói khát đến cùng quẫn mà thị chịu theo không Tràng. Thêm một người bị đèo bòng giữa nạn đói quả là khó khăn. Cô dâu xuất hiện cùng Tràng vào buổi chiều trước ánh mắt ngạc nhiên của nhiều người dân xóm ngụ cư. Ngoài ra, có một nhân vật đã bày tỏ sự lo lắng cho anh, nói rằng: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về.” Biết có thể sống sót trong tình trạng khó khăn này không?

Xem Thêm : Top 20 Đoạn văn phân tích chi tiết Trần Quốc Toản bóp nát quả cam

Hình ảnh của anh cu Tràng, bà cụ Tứ và người vợ theo không Tràng nằm giữa ranh giới của sự sống và cái chết. Họ đã cưu mang và ủng hộ nhau để vượt qua những khó khăn. Vì “người chết như ngả rạ” và “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, nhân vật anh cu Tràng xuất hiện giữa một không gian u ám, đầy tử khí. Đám trẻ con trong khu vực thường trêu ghẹo anh vì sự ngu ngốc của anh. Gia cảnh của Tràng rất bất hạnh vì anh ấy là người xóm ngụ cư và sống cùng với người mẹ già. Anh chưa lấy được vợ mặc dù đã nhiều tuổi vì nghèo khó. Bất ngờ thay, ngay khi anh cu Tràng bị đói, anh ta lại có vợ. Khiến mặt anh “có một vẻ gì phớn phở khác thường”, “tủm tỉm cười nụ một mình” và “hai mắt thì sáng lên lấp lánh” là một niềm vui lớn đối với anh. Cần có sự chuẩn bị trước khi lấy vợ, đây là một quy trình quan trọng trong cuộc sống. Hai người đến với nhau bằng tình yêu đồng điệu. Anh cu Tràng và người vợ nhặt không có cưới xin vì vậy họ đã không có một nghi lễ tử tế. Họ không đến với nhau vì tình yêu đôi lứa mà chỉ gặp nhau tình cờ. Họ gặp nhau vì nghèo khó và kết nối với nhau.

Tính nết của anh cu Tràng đã thay đổi khi người vợ nhặt xuất hiện trong cuộc đời anh. Anh ấy thay đổi từ một người ngốc nghếch sang một người có trách nhiệm và chăm sóc gia đình. Trước khi đưa nàng về làm dâu, Tràng rất ga lăng trong việc sửa soạn cho người vợ nhặt. Rồi anh đến chợ tỉnh và “bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về.” Anh còn mua hai hào dầu thắp. Tràng đã chuẩn bị tinh thần và vật chất cho cuộc sống mới. Anh “lấy vậy làm thích ý lắm” khi những ánh mắt của người dân xóm ngụ cư đổ dồn về phía anh và người vợ nhặt. Anh ấy đã bộc lộ niềm vui của mình khi có vợ bằng cách sử dụng “cái mặt cứ vênh lên tự đắc”. Giữa nạn đói như anh cu Tràng, mấy ai có đủ dũng cảm để chấp nhận hạnh phúc của mình? “Nhà tôi mới về làm bạn với tôi đấy u ạ!” anh nói với bà cụ Tứ về sự duyên dáng và số của mình với người vợ nhặt. Chúng tôi phải cạnh tranh với nhau…Chẳng qua nó cũng là số. Tràng “ngỡ ngàng như không phải” trước sự kiện thị theo không. Tuy nhiên, chính sự kiện quan trọng ấy lại khiến anh cảm thấy vui sướng và phấn chấn. Anh cu Tràng cảm thấy mình “nên người” và “có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.” Hạnh phúc đến với anh một cách kỳ lạ, bất ngờ và vô cùng thiêng liêng. Hạnh phúc bình dị, trần thế đã được tràng đón nhận sau khi vượt qua thực tế đói khát. Anh đã trở nên chín chắn hơn và trưởng thành hơn để có thể chăm sóc gia đình tốt hơn.

Mọi người trong khu vực cũng như bà cụ Tứ, mẹ của Tràng, đều bất ngờ về việc anh ấy có vợ. Ngạc nhiên, cô ấy “đứng ngay đầu giường thằng con mình” và “chào mình bằng u”. Đó là tâm lý thường gặp của các bà mẹ trong những tình huống như vậy. “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình” và “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt” sau khi Tràng giới thiệu người vợ nhặt. Bà lo lắng về việc “chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Bà biết và thương cảm với vai trò của nàng dâu mới, và chính nhờ đó mà con bà có được vợ. Bà cũng vui mừng nếu hai vợ chồng thỏa thuận và bảo ban nhau làm ăn. Bà xót thương tình trạng của người vợ nhặt. Đó là sự đùm bọc lẫn nhau của những người cùng cảnh ngộ. Bà cụ Tứ thực sự là một người mẹ vị tha và bao dung.

Xem Thêm : Đừng chạy theo xu hướng mà quên bản thân

Bà có nghị lực sống và tin tưởng vào tương lai. Điều này được thể hiện trong những gì bà nghĩ, nói và làm. Bà đã khuyến khích các con mình làm ăn và lo cho tương lai bằng những câu nói như “Rồi ra may mà ông giời cho khá” và “ai giàu ba họ, ai khó ba đời.” Bà cảm thấy “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” vào sáng hôm sau. Sau này, bà nói toàn bộ những câu chuyện vui vẻ và hài hước trong bữa cơm sáng. Bà yêu cầu anh cu Tràng mua đôi gà khi có tiền và khen ngợi món chè khoán ngon. Bà khen ngon món cháo cám đắng chát này như một cách để a ủi cả bản thân và con cái, giấu giọt nước mắt tủi hờn. Bà là người mang lại cho đôi vợ chồng trẻ niềm tin và sức sống mới. Niềm tin vào tương lai tươi sáng của bà cụ Tứ đã trở thành ánh sáng và trở thành điểm tựa tâm hồn cho những đứa con của bà.

Nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt bên cạnh anh cu Tràng và bà cụ Tứ. Đây là một nhân vật điển hình cho cuộc sống của phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Không thể tìm thấy ngay cả cái tên của người phụ nữ ấy. Tác giả gọi nhân vật này là “thị”, một đại từ nhân xưng mô tả những người phụ nữ khác và số phận chung của họ trong nạn đói. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh của thị bằng tất cả nỗi xót xa của một người đang gặp khó khăn. Anh cu Tràng không nhận ra những gì thị nói là “rách quá”, “cái ngực gầy lép nhô lên”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Thị không có việc làm; cô ấy chỉ ngồi ở cửa nhà kho nhặt hạt rơi và chờ ai đó gọi đến để tìm việc làm. vì câu hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!” Hãy đến đây và hỗ trợ anh đẩy xe bò.mà thị đã “lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng”. Đây cũng là lý do khiến hai người kết hôn. Khi tìm cách ăn vạ anh cu Tràng, con người thị có một chút “chao chát chỏng lỏn”.Thị bỏ qua các từ vựng cần thiết đối với một người phụ nữ, bao gồm “sà xuống”, “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” và “cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Mặc dù “sưng sỉa” là vậy, nhưng vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam ẩn sâu trong người vợ nhặt. Khi biết anh cu Tràng chưa có vợ, Thị đã theo anh ta về nhà. “Chân nọ bước díu cả vào chân kia” trên con đường trở về với sự rón rén, e thẹn và ngượng nghịu. Thị chỉ “ngồi mớm xuống mép giường” và cất tiếng chào bà cụ Tứ khi trở lại nhà Tràng. Khi nàng dâu mới về nhà chồng, thị bỡ ngỡ. Thị chỉ “nén một tiếng thở dài” khi đứng trước “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.” Vào sáng hôm sau, người vợ nhặt đã thay đổi đáng kể. Thị “hiền hậu đúng mực”, cùng với bà cụ Tứ, dọn dẹp nhà cửa và làm bữa cơm đầu tiên của mình. Thị “vẫn điềm nhiên đưa vào miệng” mặc dù món chè khoán có vị đắng. Thị đồng ý với cuộc sống khó khăn này.

Thị không muốn kết hôn với anh cu Tràng vì thị tin vào cuộc sống. Cuộc sống của thị được cứu vãn nhờ sự giúp đỡ của anh cu Tràng và bà cụ Tứ. Kim Lân đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Tác phẩm lên án tội ác diệt chủng của thực dân Pháp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói, đồng thời bộc lộ niềm thương cảm và xót xa đối với cuộc sống con người.

Nguồn: https://vanhocvatuoitre.com.vn
Danh mục: Những bài văn hay

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *